
|
1. THỊT LÀM GIA TĂNG NGUY CƠ LẠC NỘI MẠC TỬ CUNG
Lạc nội mạc tử cung (endométriose) là một bệnh phụ khoa được đặc trưng bởi sự hiện diện của mô nội mạc tử cung (tissu endométrial) (bình thường phủ mặt trong của xoang tử cung) ở ngoài tử cung, thường là trong vùng chậu và trong bụng.
Một công trình nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những người ăn nhiều thịt đỏ (viande rouge) và jambon có nguy cơ bị lạc nội mạc tử cung hai lần nhiều hơn: 30 đến 40 % những phụ nữ bị bệnh này đều vô sinh.
(SCIENCES ET AVENIR 8/2008)
2. NHỮNG ĐIỀU MỚI ĐỔI VỚI LẠC NỘI MẠC TỬ CUNG (ENDOMETRIOSE).
Mãi đến nay, lạc nội mạc tử cung (endométriose) chỉ có thể được phát hiện nhờ soi ổ bụng (laparoscopie). Nhưng một phương pháp mới đang làm thay đổi cục diện.
Lạc nội mạc tử cung không phải là một bệnh hiếm, người ta ước tính từ 10% đến 15% số các phụ nữ đang mắc phải bệnh hay sẽ phải đối đầu vào một ngày nào đó, với hậu quả là đau vùng hố chậu (douleurs pelviennes), đau lúc kinh kỳ (dysménorrhée), đau lúc giao hợp (dyspareunie) và các rối loạn về khả năng có thai. Mãi đến hôm nay, chẩn đoán chỉ có thể được xác lập nhờ soi ổ bụng, một kỹ thuật xâm nhập đòi hỏi phải nhập viện và gây mê. Tuy nhiên có cái mới, mà những kết quả của một công trình nghiên cứu mới đây đã vừa chứng tỏ điều đó. Các nhà nghiên cứu đã phát triển một xét nghiệm mới cho phép phát hiện lạc nội mạc tử cung trên cơ sở một sinh thiết của nội mạc tử cung, bất thường nơi các phụ nữ bị bệnh này. Thật vậy, mật độ của các sợi thần kinh 14 lần cao hơn bình thường.
MỘT TIỂU CHUẨN TỐT.
Công trình nghiên cứu được thực hiện qua các sinh thiết nội mạc tử cung (biopsie endométriale) của 99 phụ nữ đã đi khám bệnh vì những cơn đau vùng hố chậu và/hoặc những rối loạn khả năng sinh sản. Các kết quả đã được so sánh với những kết quả của soi ổ bụng (xác nhận rằng 64 trong các phụ nữ này bị bệnh lạc nội mạc tử cung).
Xét nghiệm căn cứ trên mật độ của các sợi thần kinh cũng dương tính nơi tất cả các bệnh nhân này trừ một. Có 6 dương tính giả, tuy nhiên hai trong số này có những tiền sử lạc nội mạc tử cung. Kết cục, mức độ nhạy cảm lên đến 98% và mức độ đặc hiệu 83%, điều này, theo các nhà nghiên cứu, cũng tốt như các số điểm (scores) có được qua nội soi ổ bụng. Ngay cả các thầy thuốc phụ khoa có kinh nghiệm về soi ổ bụng có khi bỏ sót một chẩn đoán lạc nội mạc tử cung.
Trắc nghiệm mới cho phép nhận diện tốt hơn các phụ nữ sẽ cần đến một nội soi ổ bụng. Và có thể điều này chưa chấm hết, bởi vì công cuộc nghiên cứu hiện nay đang hướng về các chất chỉ dấu máu (marqueurs sanguins), lại còn ít xâm nhập hơn so với sinh thiết.
(LE GENERALISTE 10/9/2009)
3. NHỮNG YẾU TỐ DI TRUYỀN LIÊN KẾT VỚI BỆNH LẠC NỘI MẠC TỬ CUNG.
Trong lúc so sánh ADN của 5.586 phụ nữ bị chứng lạc nội mạc tử cung (endométriose) và của 9.331 người lành mạnh (công trình nghiên cứu liên kết quy mô génome từng được thực hiện cho đến nay và là công trình đầu tiên được thực hiện ở các phụ nữ châu Âu), các nhà nghiên cứu (Đại học Oxford), Úc (Viện nghiên cứu y khoa của Queensland) và Hoa Kỳ (đại học y khoa Havard và Brigham và Women’s Hospital), đã nhận diện hai vùng của génome liên kết với một nguy cơ gia tăng bị bệnh lạc nội mạc tử cung nơi vài phụ nữ.Biến thể (variante) đầu tiên được phát hiện nằm ở nhiễm sắc thể số 7. Biến thể này thường có nhiệm vụ điều hòa các gène lân cận tham gia vào sự phát triển của tử cung và thành của nó. Biến thể thứ hai năm trên nhiễm sắc thể số 1, gần gène WNT4. Biến thể này có can dự trong chuyển hóa hormone và sự phát triển và chức năng của bộ máy sinh sản nữ.
Công trình nghiên cứu này là một bước tiến đáng kể. Mặc dầu vẫn còn phải xác định tác dụng của những biến thiên di truyền này lên sự tạo thành của các thương tổn lạc nội mạc tử cung, nhưng khám phá này đã mang lại hai hy vọng, hy vọng có một chẩn đoán sớm hơn, trước khi bắt đầu các triệu chứng, và hy vọng hiệu chính một điều trị phòng ngừa hiệu quả hơn.
Bệnh lạc nội mạc tử cung ảnh hưởng lên khoảng 170 triệu phụ nữ trên thế giới, hoặc 10% các phụ nữ trong lứa tuổi sinh sản.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 14/1/2010)